Bài gửi của cộng đồng - Tác giả: Caner Taçoğlu
Việc chào bán lần đầu ra công chúng (IPO) đề cập đến thời điểm một công ty tư nhân bắt đầu chào bán cổ phiếu ra công chúng lần đầu tiên. Thuật ngữ “công khai” cũng có thể được dùng để chỉ IPO trong một số trường hợp thông thường.
Nhiều công ty quyết định thực hiện IPO để cho phép các bên liên quan bán cổ phần của họ ra công chúng. Các công ty khởi nghiệp, công ty đang phát triển hay doanh nhân đang cần vốn thường sẽ chọn con đường IPO để huy động vốn cho những phát triển tiếp theo. Trước khi thực hiện IPO, cần thành lập một ủy ban gồm các chuyên gia tài chính và quản lý để kiểm tra tất cả các quy trình cần thiết.
Sau khi công ty thực hiện IPO, công ty đó vẫn có thể chọn huy động vốn nguồn vốn bổ sung bằng cách thực hiện các đợt chào bán thứ cấp trong tương lai. Trở thành một công ty mở cửa cho công chúng có những lợi ích riêng, chẳng hạn như cho phép nhân viên của họ trở thành cổ đông để họ có thể có động lực làm việc hơn. Trong một số trường hợp, việc IPO cũng có thể nâng cao danh tiếng và uy tín của công ty.
Tuy nhiên, sau khi IPO, giá trị của công ty có thể sẽ được đánh giá dựa trên giá trị cổ phiếu của nó, điều này có thể ảnh hưởng đến hiệu suất thực tế. Một số công ty cũng có thể tăng giá trị cổ phiếu của họ một cách giả tạo, điều này cuối cùng có thể dẫn đến nhiều vấn đề.
Mặc dù thường được trình bày dưới dạng các thuật ngữ tương tự và có thể so sánh được, nhưng IPO và ICO (Cung cấp tiền xu ban đầu) là những thứ rất khác nhau. IPO thường áp dụng cho các doanh nghiệp đã thành lập bán cổ phần sở hữu một phần trong công ty của họ như một cách để gây quỹ. Mặt khác, ICO chủ yếu được sử dụng như một cơ chế gây quỹ cho phép các công ty huy động vốn cho dự án của họ trong giai đoạn đầu (các nhà đầu tư không mua bất kỳ quyền sở hữu nào trong công ty).
Hơn nữa , các đợt IPO được các cơ quan chính phủ quản lý chặt chẽ và nhìn chung hoạt động tốt trong môi trường tập trung. Ngược lại, thiếu quy định đối với ICO và rủi ro có xu hướng cao hơn nhiều.